Theo dõi sức khỏe người nhiễm HIV qua các xét nghiệm

  • Có nhiều xét nghiệm rất cần thiết dùng để theo dõi
    sức khỏe người nhiễm HIV. Trong khuôn khổ bài viết, xin lưu ý một số xét nghiệm
    cơ bản cần thiết nhất, người nhiễm có thể tham khảo và theo dõi sức khỏe của
    mình qua kết quả các xét nghiệm này.

    Nồng độ
    hemoglobin trong máu:
    thường
    được ký hiệu là HGB hay Hb (đơn vị tính bằng g/l hay g/dl), đo hàm lượng
    hemoglobin trong máu. Người bệnh được coi là thiếu máu khi nồng độ
    Hb thấp hơn: 13 g/dl (130 g/l) ở nam giới; 12 g/dl (120 g/l) ở nữ giới 11 g/dl
    (110 g/l) ở người lớn tuổi. Do người nhiễm thường gặp khó khăn trong cuộc sống,
    chế độ dinh dưỡng không đủ, các bệnh lý đường ruột dễ khiến cho sự hấp thu dinh
    dưỡng và Sắt kém.
    Hậu quả người bệnh

    Số
    lượng bạch cầu:
    là số lượng bạch cầu có trong một đơn vị máu, được ký hiệu là WBC (white
    blood cell
    ). trung bình khoảng 7000 bạch cầu/mm³ máu. Số lượng bạch cầu
    tăng cao trong các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính. Trong số lượng bạch cầu cần quan
    tâm nhất là số lượng Lympho bào vì chúng có vai trò quan trọng trong hệ thống
    miễn dịch của cơ thể, chúng có thể “nhớ” sau khi tiếp
    xúc với tác nhân gây bệnh và tồn tại lâu dài cho đến khi tiếp xúc lần sau với
    tác nhân đó, khi ấy chúng sẽ gây ra những phản ứng miễn dịch mạnh mẽ, nhanh và
    kéo dài hơn so với lần đầu. Lympho bào giảm trong nhiễm HIV mạn tính… Trong
    các loại TB lympho, số lượng tế bào CD4
    là quan trọng nhất để đánh giá trạng thái của hệ miễn dịch. Do CD4 có chức năng
    kích hoạt hệ thống miễn dịch, cũng như nó là nơi tế bào mà VR sao chép nhân
    lên. Ở những người không bị nhiễm HIV, số lượng CD4 trong máu bình thường 800 –
    1000 tế bào / ml. Những người nhiễm HIV, bệnh nhiễm trùng cơ hội có thể xuất
    hiện khi CD4 của họ < 500 TB/ ml, và các nhiễm trùng cơ hội nặng hơn xuất hiện
    khi CD4 < 200 TB.

    – Đo
    tải lượng virus:
    là đếm số lượng
    virus, giúp tiên đoán tế bào CD4 có giảm hay không trong những tháng tới. Nói
    cách khác, những người có tải lượng virus cao dễ bị sụt giảm tế bào CD4 và bệnh
    tiến triển nhanh hơn những người có tải virus lượng thấp. Vì thế, việc biết được
    tải lượng của virus có thể được dùng để tiên đoán sự phát triển của bệnh. Tải
    lượng virus cũng là một phương tiện quan trọng cho việc theo dõi hiệu quả của
    các điều trị mới và quyết định khi nào thuốc không còn tác dụng. Tải lượng
    virus sẽ giảm trong vòng vài tuần bắt đầu một phương thức điều trị kháng virus
    hiệu quả. Nếu một phối hợp thuốc rất mạnh, số lượng virus trong máu sẽ giảm đến
    100 lần, như từ 100.000 xuống 1000 bản sao / ml trong 2 tuần đầu và giảm từ từ
    hơn nữa trong 12-24 tuần tiếp theo sau. Hơn nữa, sự giảm tải lượng virus sau
    khi bắt đầu điều trị càng lớn thì virus còn bị ức chế càng lâu.

    – XN
    Viêm gan B, viêm gan G, theo dõi men gan:
    Do bệnh nhân HIV dễ mắc Lao và cần điều trị ARV. Nếu như chức năng gan
    không tốt, việc điều trị Lao và dùng ARV sẽ rất khó khăn do tăng độc tính của
    thuốc, nhiễm độc thần kinh,  giảm hấp thu
    dinh dưỡng …. Vì vậy, theo dõi tình trạng viêm gan, chức năng gan sẽ giúp chủ
    động trong việc dùng thuốc.


    Phát hiện bệnh Lao:
    Ngoài theo dõi sức
    khỏe qua các xét nghiệm máu nói trên. Bệnh lao là bệnh nhiễm trùng cơ hội hay
    gặp nhất ở người nhiễm H. Người bệnh có thể tự theo dõi với những biểu hiện
    điển hình của bệnh như: sốt kéo dài về chiều, ho khạc đờm kéo dài, vã mồ hôi…
    thì chụp X quang phổi, soi đờm tìm vi khuẩn là những xét nghiệm mà người nhiễm
    H nên làm định kỳ. Những tổn thương phổi có thể phát hiện sớm khi chụp tim phổi
    và soi đờm dương tính là kết quả khẳng định người bệnh đã mắc lao, để có thái
    độ điều trị và phòng bệnh cho người xung quanh.